PROJECT OVERVIEW

PROJECT DETAILS
  • Category Hội chứng do đột biến lệch bội NST

Trisomy 21 (Hội chứng Down): Định nghĩa, Nguyên nhân, Triệu chứng, Hình ảnh và Chẩn đoán

Nguồn: Geneticeducation

“Trisomy 21 còn được gọi là hội chứng Down là một dạng sai lệch nhiễm sắc thể xảy ra do thừa 1 hoặc 1 phần bản sao của nhiễm sắc thể 21.”

Năm 1866, John Langdon Down đã mô tả các đặc điểm lâm sàng của Trisomy 21, và do đó bắt nguồn từ tên của ông, hội chứng này được đặt tên là hội chứng Down.

Cho đến nay, Trisomy 21 phổ biến hơn các loại thể tam nhiễm khác và có thể được phát hiện bằng cách sử dụng siêu âm, karyotype và xét nghiệm NIPT (kiểm tra cfDNA).

Bất thường Nhiễm sắc thể (NST) được hiểu là những thay đổi/sai lệch trong số lượng hoặc cấu trúc của NST. Ở người, sự thay đổi số lượng nhiễm sắc thể (thể lệch bội – Aneuploidy) gây ra các vấn đề sức khỏe và y tế nghiêm trọng.  

Nhiều bất thường về sức khỏe tâm thần và thể chất xảy ra ở người mắc hội chứng Down với các mức độ nghiêm trọng khác nhau phụ thuộc vào loại thể tam nhiễm.

Trong bài viết này, chúng ta sẽ thảo luận về một trong những sai lệch nhiễm sắc thể phổ biến nhất được gọi là hội chứng Down, DS, trisomy 21 hay DNS.

 

Trisomy 21 là gì?

Do mất cân bằng trong phân bố nhiễm sắc thể nên xảy ra tình trạng trên. Chậm phát triển trí tuệ, dị thường đường tiêu hóa, suy nhược thần kinh cơ và thiểu năng trí tuệ thường thấy ở hội chứng Trisomy 21.

Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong của người mắc Trisomy 21 là rất thấp, đôi khi các vấn đề nghiêm trọng về phát triển và trí tuệ cũng được quan sát thấy ở một số người.

Trong lịch sử, biểu hiện của hội chứng này đã được ghi lại dưới dạng hình ảnh ở thế kỷ 15 hoặc 16.

Đặc điểm khuôn mặt đặc trưng của người bị Trisomy 21 được quan sát thấy ở tất cả các trường hợp, thậm chí trông họ rất giống nhau, một số động vật mắc hội chứng Down có các đặc điểm trên khuôn mặt tương tự nhau. Đặc điểm khuôn mặt khác biệt này của hội chứng Down được quan sát thấy từ ~2500 năm trước.

Trước khi John Langdon Down mô tả các đặc điểm của Trisomy 21, Bernal và Briceno đã xác định được một số tác phẩm điêu khắc về người mắc hội chứng Down. Ngoài ra, Esquirol đã mô tả các đặc điểm kiểu hình liên quan đến thể tam nhiễm 21.

Điều thú vị là cơ sở nhiễm sắc thể của hội chứng Down (Trisomy 21) đã được Waardenburg và Davenport thiết lập vào năm 1932.

Vào năm 1959, Jacobs (Mỹ) và Lejeune J (Pháp) đã xác định được bản sao thừa của nhiễm sắc thể 21 từ các cá nhân mắc Trisomy 21. Nhờ phát hiện của họ, hội chứng Down được đặt tên là thể tam nhiễm 21 (Trisomy 21).

Bạn có biết? Trong thế kỷ 18, Trisomy 21 được gọi là “Mongoloids”, nguyên nhân là do những đứa trẻ mắc hội chứng Down trông giống người Mông Cổ. 

Ký hiệu tế bào học: 47, XX/XY, +21

 

Định nghĩa:

“Do sự phân bố không đồng đều của nhiễm sắc thể 21 trong quá trình giảm phân, một bản sao thừa của nhiễm sắc thể 21 hiện diện trong cùng một cặp, gây ra các vấn đề nghiêm trọng về phát triển và trí tuệ được gọi là hội chứng Down hoặc thể tam nhiễm 21.”

 

Nguyên nhân:

Tương tự như các loại Thể tam nhiễm (Trisomy) khác, Trisomy 21 cũng bắt nguồn từ các sự kiện ngẫu nhiên, thậm chí được biết đến là do sự không phân ly của Nhiễm sắc thể. 

Trong quá trình phân chia của tế bào tế bào mầm, sự phân bố không đồng đều của nhiễm sắc thể 21 gây ra hội chứng Down, tuy nhiên, sự dư thừa 1 bản sao của nhiễm sắc thể 21 không phải là lý do duy nhất.

Chuyển đoạn là một nguyên nhân khác của hội chứng Down.

Khi tế bào mầm có dư 1 bản sao của nhiễm sắc thể số 21 tham gia vào quá trình thụ tinh thì hội chứng Down được hình thành.

 

Hội chứng Down thuần (Trisomy 21 toàn phần):

1 bản sao nhiễm sắc thể 21 dư thừa xuất hiện trong mọi tế bào của thai nhi. Khoảng 95-97% trường hợp mắc hội chứng Down thuần.

Về mặt kiểu hình, hội chứng Down thuần cho mức độ nghiêm trọng cao hơn với nhiều biểu hiện về khuyết tật trí tuệ và phát triển hơn.

 

Hội chứng Down thể khảm (Trisomy 21 thể khảm):

Bản sao thứ ba của nhiễm sắc thể số 21 chỉ hiện diện trong một số (không phải tất cả) tế bào của cơ thể. Do đó, trong trường hợp này, các triệu chứng và dấu hiệu phụ thuộc vào loại tế bào dư thừa NST số 21.

Dưới 2% trường hợp mắc hội chứng Down là thể khảm với mức độ nghiêm trọng thấp hơn so với hội chứng Down thuần. 

 

Hội chứng Down chuyển đoạn (Trisomy 21 chuyển đoạn):

Tương tự như Trisomy 13, chuyển đoạn là một lý do khác gây ra hội chứng Down. 3-4% trường hợp được chẩn đoán là Trisomy 21 chuyển đoạn.

Trong trường hợp này, một số phần của nhiễm sắc thể 21 được chuyển sang các nhiễm sắc thể khác, thông thường sẽ chuyển đoạn với Nhiễm sắc thể số 14 và 15.

Đáng chú ý, đặc điểm kiểu hình sẽ phụ thuộc vào phần nhiễm sắc thể số 21 bị chuyển đoạn.  

Theo nghiên cứu gần đây, trong số 200 gen của nhiễm sắc thể 21, chỉ một số ít chịu trách nhiệm gây ra bất thường kiểu hình trong hội chứng Down và do đó nếu những gen này bị chuyển vị, nó có thể gây ra các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

Không giống như 2 loại ở trên, hội chứng Down chuyển đoạn có thể di truyền được, vì vậy, đây còn được gọi là hội chứng Down di truyền. Người mẹ mắc hội chứng Down chuyển đoạn thì con sẽ có nguy cơ mắc Down cao hơn so với trường hợp người cha mắc hội chứng này.

 

Các triệu chứng của trisomy 21:

Khuyết tật về phát triển và trí tuệ thường được quan sát thấy nhiều hơn trong tất cả các trường hợp thể tam nhiễm 21. Một số bất thường về kiểu hình phổ biến của hội chứng Down được liệt kê dưới đây:

    • Mặt dẹt đặc trưng
    • Không có xương mũi
    • Mắt xếch hình quả hạnh nhân
    • Cổ dày và ngắn (dày hơn 6mm)
    • Bàn tay, bàn chân và tai nhỏ
    • Nếp nhăn Palmar
    • Trương lực cơ kém
    • Chiều cao từ thấp đến trung bình
    • Lưỡi có xu hướng nhô ra khỏi miệng
    • Linh hoạt quá mức
    • Khuyết tật trí tuệ với chỉ số thông minh IQ từ thấp đến trung bình.
    • Một trong những đặc trưng của hội chứng Down hoặc trisomy 21 là “khuôn mặt luôn tươi cười, hồn nhiên và chân thật”

 

Hình ảnh người mắc hội chứng Trisomy 21:

Đặc điểm khuôn mặt điển hình của người mắc hội chứng Down (Khuôn mặt họ luôn tươi cười).

 

Sự di truyền của nhiễm sắc thể số 21:

Tổng số 46 nhiễm sắc thể (23 cặp) có trong cơ thể chúng ta, trên đó toàn bộ vật chất di truyền của chúng ta – DNA được định vị và di truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Nhiễm sắc thể số 21 là một nhiễm sắc thể tâm đầu nhỏ chiếm 1,5% bộ gen người.

Với hơn 200 gen đã biết, tổng kích thước của nhiễm sắc thể số 21 là khoảng 49Mb.

Nghiên cứu cho thấy rằng sự bổ sung thêm bản sao của một số gen được gọi là sự mất cân bằng liều lượng gen là nguyên nhân tạo ra kiểu hình khác biệt ở người mắc hội chứng Down.

Một số gen nhạy cảm với liều lượng là:

COL6A1, ETS2, SLC19A1, ITSN1, ERG, SIM2, DSCAM, JAM2, PTTG11P, OLIG1, OLIG2, DYRK1A và APP.

Tỷ lệ mắc Trisomy 21 trên toàn cầu là 1/800 – 1/1600 trẻ sơ sinh, mặc dù đây không phải hội chứng di truyền.

Đáng chú ý, như chúng tôi đã nói trước đó, 2% trường hợp Trisomy  21 chuyển đoạn là do di truyền.

 

Sàng lọc Trisomy 21:

Việc sàng lọc Trisomy 21 được thực hiện một cách tuần tự bắt đầu từ một số xét nghiệm tổng quát cho thai nhi đến xét nghiệm sinh hóa và di truyền nâng cao.

Tuổi mẹ là dấu hiệu đầu tiên để sàng lọc bất kỳ dạng lệch bội nào. Những bà mẹ trên 35 tuổi có nhiều nguy cơ mắc hội chứng Down hoặc Trisomy 21 hơn.

Bước tiếp theo, trong tam cá nguyệt đầu tiên, xét nghiệm đo độ mờ da gáy được thực hiện. Độ dày nếp gấp da cổ ≥6mm được phân loại là có nguy cơ rất cao mắc hội chứng Down.  

Độ mờ da gáy là xét nghiệm đánh dấu đầu tiên được sử dụng để sàng lọc Trisomy 21.

Trong tam cá nguyệt thứ hai, xét nghiệm PAPP-A, Beta-hCG, AFP hoặc sự kết hợp của cả ba xét nghiệm được thực hiện, đây được gọi là các xét nghiệm dấu ấn sinh học (Marker) trong huyết thanh.

Marker  Xác suất mắc hội chứng Down
Tuổi mẹ  95%
Xét nghiệm đo độ mờ da gáy (NT)  45 đến 50%
Xét nghiệm kết hợp PAPP-A, beta- hCG và AFP 94%
Không có xương mũi  73%
Giãn bể thận (Pyelectasis)  25%
Xét nghiệm kết hợp tất cả các Marker  97%

Sự vắng mặt hoặc hiện diện của xương mũi và đường kính của bể thận cũng được sử dụng như một chỉ thị để sàng lọc DS.

Bên cạnh tất cả các xét nghiệm Marker này, trong giai đoạn cuối của quá trình sàng lọc hội chứng Down nên thực hiện xét nghiệm phân tích tế bào học để xác nhận kết quả của các xét nghiệm trên.

Sự hiện diện bản sao thừa của nhiễm sắc thể 21 được phát hiện bằng cách sử dụng xét nghiệm phân tích nhiễm sắc thể.

 

Phương pháp chẩn đoán:

Siêu âm và xét nghiệm Nhiễm sắc thể đồ (Karyotype) là hai phương pháp thường được sử dụng để phát hiện Trisomy 21, tương tự như các Trisomy khác.

 

Siêu âm:

Các bất thường cấu trúc có thể phát hiện sớm nhờ siêu âm trong tam cá nguyệt đầu tiên. Đây là phương pháp không xâm lấn và có độ chính xác cao.

Hình ảnh siêu âm của thai nhi mắc Trisomy 21.

 

Phân tích nhiễm sắc thể:

Thường được biết đến là xét nghiệm karyotype hoặc phân tích di truyền tế bào – xét nghiệm nhiễm sắc thể là xét nghiệm chẩn đoán cuối cùng được thực hiện để xác định thể tam nhiễm.

Xét nghiệm karyotype lấy mẫu sinh thiết gai nhau (giai đoạn sớm của thai kỳ) hoặc dịch ối (giai đoạn sau của thai kỳ) để phân tích nhiễm sắc thể.

Các tế bào được nuôi cấy trong điều kiện vô trùng nghiêm ngặt để thu nhiễm sắc thể kỳ giữa. Sử dụng phương pháp nhuộm băng G, các bất thường về số lượng nhiễm sắc thể có thể được phân tích nhờ kính hiển vi.

Kết quả Karyotype của Hội chứng Trisomy 21.

 

Xét nghiệm sàng lọc trước sinh không xâm lấn (NIPT):

Lấy mẫu dịch ối hoặc sinh thiết gai nhau tiềm tàng một số nguy cơ cho mẹ và bé. Thêm vào đó, đây là xét nghiệm xâm lấn nên sản phụ có thể phải trải qua cảm giác đau đớn trong quá trình lấy mẫu.

Các nghiên cứu cho thấy một lượng nhỏ DNA tự do của thai nhi xuất hiện trong máu mẹ. Bằng cách phân lập DNA của thai nhi trong máu mẹ, xét nghiệm chẩn đoán hội chứng Down có thể được thực hiện.

DNA của thai nhi được phân lập cẩn thận từ DNA người mẹ và tiến hành giải trình tự. Sử dụng phương pháp giải trình tự đồng thời lượng lớn các đoạn DNA ngắn có thể xác định được sự hiện diện bản sao thừa của 1 hoặc 1 phần nhiễm sắc thể.

Mặc dù phương pháp hiện tại không được chấp nhận trên toàn cầu như một xét nghiệm chẩn đoán, nhưng các nhà khoa học coi đây là một trong những phương pháp sàng lọc an toàn hơn.

Ngay cả sau khi tiến hành xét nghiệm cfDNA, phân tích di truyền tế bào vẫn phải được thực hiện nếu được chẩn đoán dương tính với hội chứng Down.

Kết luận, chúng ta có thể nói rằng kỹ thuật phân tích di truyền tế bào là xét nghiệm chẩn đoán cuối cùng được thực hiện để xác nhận kết quả của hội chứng Down, tuy nhiên, chỉ định phân tích siêu âm cũng được tính đến để đưa ra nhận xét cuối cùng. 

Xem thêm về xét nghiệm sàng lọc trước sinh không xâm lấn NIFTY tại link sau đây: https://gentechlab.com.vn/service/sang-loc-truoc-sinh-khong-xam-lan/

 

 

Tuổi thọ:

Tỷ lệ tử vong của thai nhi mắc Trisomy 21 thấp hơn nhiều so với Trisomy 18 và 13. Mặc dù có một số vấn đề về phát triển, trí tuệ và tâm thần nhưng tuổi thọ của người mắc Trisomy 21 tương đương với người bình thường, một người có thể sống đến năm 60 tuổi nếu được điều trị đúng cách và quản lý tốt.

Hiện nay, người mắc Trisomy 21 có thể đến trường như những học sinh bình thường, thậm chí một số em còn được cấp bằng tốt nghiệp đại học và cao đẳng.

Họ có thể tự kiếm tiền bằng cách làm việc cho một tổ chức nào đó hoặc cho chính họ. Tại một số tổ chức dành cho người mắc hội chứng Down ở địa phương, người mắc Trisomy 21 có thể tự làm đồ cổ và bán nó trong triển lãm, tất cả những hoạt động này đều do bệnh nhân mắc hội chứng Down thực hiện.

Ngoài một số vấn đề về trí tuệ, tim và đường tiêu hóa thì một đứa trẻ bị Trisomy 21 có thể sống một cuộc sống bình thường.

Do sự tiến bộ của công nghệ, tuổi thọ của người mắc hội chứng Down liên tục tăng lên.

 

Gợi ý cho phụ huynh:

Với tư cách là nhà di truyền học, chúng tôi muốn nói với các bậc cha mẹ rằng không ai trong số các bạn phải chịu trách nhiệm về hội chứng này. Vì vậy, đừng đổ lỗi cho nhau mà hãy cố gắng hỗ trợ lẫn nhau.

Down là một hội chứng, không phải bệnh và ít biến chứng được phát hiện hơn ngay sau khi sinh.

Hãy nhớ rằng, với sự chăm sóc và điều trị sâu rộng, một người mắc hội chứng Down có thể sống lâu và khỏe mạnh, cho đến khi và trừ khi họ được chẩn đoán mắc một số vấn đề sức khỏe nghiêm trọng.

Hội chứng Trisomy 21 không di truyền, do đó đừng lo lắng về nó khi bạn đang có kế hoạch sinh em bé thứ hai.

Để an toàn hơn, hãy làm xét nghiệm di truyền tế bào để tìm ra Trisomy chuyển đoạn nếu có.

Trẻ mắc hội chứng Down có thể cư xử như một người bình thường nếu được điều trị thích hợp. Các liệu pháp vận động, lời nói, thể chất, tinh thần và các liệu pháp khác chắc chắn sẽ giúp họ làm tốt điều đó.

Thay vào đó, đừng coi họ như một bệnh nhân tâm thần, hãy cư xử lịch sự với họ, một đứa trẻ mắc Trisomy 21 thường nhạy cảm và dễ xúc động hơn.

Một trong những điều thú vị là trẻ mắc hội chứng Down rất ngoan và ngăn nắp hơn so với một đứa trẻ bình thường.

 

Yếu tố nguy cơ:

Phần lớn hội chứng Down xảy ra ngẫu nhiên, mặc dù, yếu tố nguy cơ có liên quan đến các trường hợp sau đây:

Tuổi mẹ cao:

Nguy cơ mắc hội chứng Down tăng lên khi tuổi mẹ tăng lên. Theo các nghiên cứu khoa học, người mẹ trên 35 tuổi có nguy cơ sinh con mắc hội chứng Down cao hơn.

Tuy nhiên, phần lớn các trường hợp mắc hội chứng Down xảy ra ở người mẹ dưới 35 tuổi. 

Hội chứng Down Di truyền:

Một số hội chứng Down chuyển đoạn có thể di truyền sang các thế hệ tiếp theo. Nếu một trong hai người cha hoặc mẹ được phát hiện mang Trisomy 21 chuyển đoạn hoặc bất kỳ thành viên nào trong gia đình họ được phát hiện mắc dạng Trisomy này thì nguy cơ mắc hội chứng Down ở con của họ là rất cao.

Cần phải xét nghiệm nhiễm sắc thể trước khi lên kế hoạch mang thai.  

Người con trước mắc hội chứng Down:

Nếu người con trước của bạn mắc Trisomy 21, sẽ có một chút nguy cơ liên quan đến lần mang thai thứ hai nếu đó là hội chứng Trisomy chuyển đoạn.

 

Phòng ngừa:

Không có kỹ thuật phòng ngừa nào cho hội chứng Down. Bằng cách chăm sóc tích cực, tư vấn và điều trị thích hợp, trẻ mắc hội chứng Down có thể có một cuộc sống khỏe mạnh.

Trong một số trường hợp nghiêm trọng, phẫu thuật có thể giúp cải thiện tuổi thọ của họ.

Ngoài ra, cha mẹ hoặc gia đình của họ phải đối mặt với các gánh nặng từ xã hội, tài chính và cảm xúc.

Những đứa trẻ đặc biệt phải đối mặt với nhiều vấn đề và chỉ trích ở trường học, nơi làm việc và chúng cũng phải đối mặt với một số biến chứng về sức khỏe. Do đó, sản phụ có thể cân nhắc tới việc đình chỉ thai kỳ vì điều này là hợp pháp ở tất cả các quốc gia.